Tĩnh triều, Thừa An năm thứ 36.
Hôm đó là ngày mùng năm, là buổi đại triều hội đầu tiên trong tháng. Chưa đến giờ canh năm, trời mới tờ mờ sáng, các quan viên tới chầu triều đã lục tục kéo đến Đãi Lậu Viện bên ngoài cửa cung, chờ điểm Mão giờ canh năm ba khắc thì tiến cung.
Ngày thường, thời khắc này là lúc dễ làm người ta mệt mỏi nhất. Tây viện thường có vài tiểu quan còn buồn ngủ tựa vào tường chợp mắt. Đông viện tôn quý hơn, đều có tiểu lại ân cần chuẩn bị sẵn trà bánh, ngồi nghỉ ở đình viện thấp thoáng.
Nhưng ngày này, các đại nhân ở cả Đông và Tây viện, bất kể phẩm cấp cao thấp, đều không hề buồn ngủ. Tây viện ba năm người tụ lại một chỗ, thì thầm bàn tán bằng thứ ngôn ngữ tối nghĩa.
“Tiền triều, Tam hoàng tử của Gia Hi Đế cấu kết với Cấm quân Thống lĩnh Cao Hải mưu phát động cung biến. Sau Cao Hải bị phó tướng chặn giết, Tam hoàng tử bị bắt. Gia Hi Đế giận dữ, công khai thẩm vấn ở triều đình.”
“Tam hoàng tử kinh sợ, tại chỗ lôi ra một loạt phe cánh che giấu, ước chừng hơn 300 người bị phán chém, số người bị liên lụy lưu đày thì vô số kể.”
“Chuyện của hơn một trăm năm trước rồi.”
“Không biết hôm nay...”
“Ăn nói cẩn thận.”
So với tiếng thì thầm đầy sợ hãi của Tây viện, Đông viện lại vô cùng yên tĩnh. Trấn Quốc Công Địch Nhung vốn có phòng riêng của mình, hôm nay lại dẫn theo hai con trai đứng nghiêm trong vườn hoa giữa sân. Phàm là người bước vào Đông viện, đều không thể tránh khỏi việc đối diện với ba cha con.
Những người có thể tiến vào Đông viện đều là quan lớn từ tam phẩm trở lên. Đã đạt đến địa vị này, ít ai là kẻ ngu xuẩn. Thấy ba cha con, họ đều khách khí hành lễ, nhưng khi trò chuyện lại toàn là những lời vô nghĩa, kín kẽ không để lộ chút sơ hở nào.
Tiếng trống canh giờ canh năm một khắc vừa vang lên, Lại Bộ Thượng thư Liễu Tranh bước vào Đông viện. Vừa thấy ba cha con họ Địch đối diện, bước chân hắn hơi dừng lại một chút, nhưng rất nhanh khôi phục bình thường, mang theo nụ cười nhạt tiến lên chào hỏi: “Hạ quan xin bái kiến Trấn Quốc Công. Viện này sáng sớm sương lạnh nặng, sao Quốc Công gia không nghỉ tạm trong sương phòng?”
Địch Nhung chưa kịp nói, con trai út Địch Hiển đã hừ lạnh một tiếng, lầm bầm: “Làm bộ làm tịch.”
Địch Nhung quát khẽ: “Không được vô lễ.”
Trưởng tử Địch Thần đã được thụ phong Thế tử, hướng Liễu Tranh hành lễ. Liễu Tranh tránh đi, tươi cười không đổi nói: “Vậy hạ quan xin vào trước.”
Địch Nhung nói: “Liễu đại nhân đi thong thả.”
Liễu Tranh dẫn hai con cháu phía sau bước vào trong. Hắn bước nhanh, nhất thời không hề nhận ra có một người đã tụt lại phía sau, đứng yên tại chỗ.
Địch Hiển cau mày, nhìn người đàn ông mảnh khảnh, cao gầy trước mặt. Khuôn mặt diễm lệ không có huyết sắc của đối phương, dưới ánh trời tối mờ hiện lên vẻ càng thêm mong manh, suy yếu, giống như một con quỷ diễm sắp tan biến trong nắng sớm. Chỉ có đôi mắt đen như lưu ly trầm tĩnh nhìn họ, vô cớ khiến người ta cảm thấy một trận lo lắng.
Cảm giác lo lắng này đến thật khó hiểu, Địch Hiển có chút bực bội, thiếu kiên nhẫn nói: “Ngươi ở đây trừng mắt nhìn chúng ta làm gì? Không nghe cha ngươi nói sao, sáng sớm sương lạnh nặng, lỡ ngươi cái đồ ốm yếu bị gió thổi bay mất, nhà họ Liễu các ngươi đừng có đổ trách nhiệm lên chúng ta...”
Địch Thần đè vai đệ đệ: “A Hiển!”
Trấn Quốc Công Địch Nhung vốn im lặng, nghiêng đầu liếc nhìn con trai út, biểu cảm không hề thay đổi, chỉ nhàn nhạt nói: “Nếu còn không quản được cái miệng, thì cút về cho lão tử!”
Địch Hiển lập tức như con chuột bị mèo nhìn trúng, vô thức rụt cổ lại, không dám nói gì thêm.
Nhưng vị đồ ốm yếu trước mặt lại không thèm để tâm. Đôi mắt đen thâm trầm chỉ nhìn chăm chú vào Địch Nhung, khẽ nói: “Quốc Công, nếu quân tâm như sắt, dẫu muốn hủy đi người thân cũng là hy vọng xa vời. Xin hãy tự bảo trọng, đừng trúng bẫy.”
Ba cha con họ Địch đều chấn động. Lời người này nói đã không còn là ám chỉ, rõ rang là đại nghịch bất đạo.
Nhưng tại sao?
Địch Nhung đón lấy ánh mắt dường như ẩn chứa ngàn lời vạn ý của đối phương, trầm ngâm nói: “Lời Liễu Thị lang nói, lão phu cảm kích. Nhưng dã thú ngoài hoang dã thấy ấu thú bị nhốt trong bẫy, còn cố gắng cứu vớt... Thú còn như thế, người dùng gì để sánh?”
Người trước mặt nhất thời không nói. Hắn chỉ rũ mắt xuống, có cơn gió lướt qua những khóm hoa sum suê trong đình viện, giọng hắn hòa vào gió, gần như không thể nghe rõ: “Nếu nói như thế, thì ấu thú của dã thú nếu có được một phần trí tuệ của con người, đã sớm nên tự kết liễu, để tránh liên lụy chí thân.”
Địch Hiển giận dữ: “Ngươi nói cái gì!”
“Biểu huynh!” Đoàn người của Liễu Tranh đã đi xa cuối cùng cũng phát hiện có người đột nhiên tụt lại phía sau.
Liễu Tranh giữ thể diện không muốn quay lại, liền có người đồng nhiệm ở Lại Bộ là Văn Tuyển Tư lang trung Liễu Cảnh Đồng vội vàng đi tới, thấy ba cha con họ Địch đều lộ vẻ không vui, vội kéo biểu huynh nhu nhược của mình, liên tục cười cầu hòa: “Quốc Công gia, Thế tử gia, Địch tiểu tướng quân, biểu huynh ta mấy hôm trước bị một trận sốt cao, tỉnh lại thì có chút... hành sự hồ đồ. Nếu có gì đắc tội, xin các vị rộng lòng tha thứ.”
Địch Nhung năm nay hơn 50 tuổi, tuy đã rút khỏi chiến trường chưa đầy ba năm, nhưng sát khí từng tắm m.á.u chiến trường vẫn không hề giảm. Khi hắn nhìn chăm chú, tạo ra áp lực rất lớn. Thấy hắn không nói tiếp, Liễu Cảnh Đồng bất giác toát mồ hôi lạnh bên thái dương.
Kẻ chủ mưu được hắn che chở phía sau lại hồn nhiên không biết, chỉ rút tay áo bị hắn nắm chặt ra, cúi lưng hành cái tiểu bối đại lễ với Địch Nhung, bình tĩnh nói: “Quốc Công bớt giận, là tiểu tử nói năng vô lễ. Ta xin lui, mong Quốc Công... bảo trọng thân thể.”
Thân ảnh mảnh khảnh của hắn như du hồn theo Liễu Cảnh Đồng đi xa.
Địch Hiển nhìn bóng lưng gầy gò của người kia, hậm hực nói: “Cứ nói nhà họ Liễu không có ai tốt lành gì. Vừa mới nói câu giống người, thế mà lại nguyền rủa người khác! Biểu ca bị người nhà họ Liễu hại thảm như vậy, hắn dám...” Hắn theo bản năng muốn sờ chuôi đao, nhưng sờ hụt mới nhớ ra đại triều hội không được mang binh khí vào điện, tức khắc càng thêm uất nghẹn.
Kể từ ba năm trước, ba cha con họ được trở về triều, cha hắn thụ phong Trấn Quốc Công, ca ca được phong Thế tử, còn hắn cũng được phong Thiên Ngưu Vệ Tướng quân.
Địch thị một nhà nhìn như phong cảnh vô hạn, nhưng đều là những chức quan nhàn tản, hữu danh vô thực. Biết vị trên kia kiêng kỵ những võ tướng nắm binh quyền, mấy năm nay huynh đệ họ theo cha ru rú ở nhà, triều hội cũng lấy cớ bệnh tật xin nghỉ, chính là không muốn gây sự chú ý của ai đó, khiến biểu ca càng thêm bị nghi kị.
Kết quả, tất cả đều là công cốc.
Địch Nhung cũng nhìn theo hướng người kia biến mất. Vẻ giận dữ trên mặt hắn đã rút đi, lại như đang có chút thất thần.
Địch Thần khẽ hỏi: “Phụ thân? Có chỗ nào không ổn sao?”
Địch Nhung lắc đầu: “Chỉ là cảm thấy hắn có chút không giống lúc trước... Nhưng ta vốn không giao thiệp nhiều, có lẽ là ta nghĩ nhiều rồi.”
Ở nơi họ đã không còn nhìn thấy, Liễu Cảnh Đồng đi theo bên cạnh vị biểu huynh hôm nay có vẻ cổ quái của mình, hỏi: “Biểu huynh vừa rồi nói gì với họ vậy?”
Vị biểu huynh chậm rãi đi về phía trước, không thèm liếc hắn một cái, nhàn nhạt đáp: “Chỉ là thử một chút thôi.”
Trong lòng Liễu Cảnh Đồng đột nhiên dấy lên một nỗi bất an vô cớ.
Biểu huynh của hắn, Liễu Tê Ngô, từ nhỏ bệnh tật ốm yếu, nhưng thiên tư lại kiêu ngạo hơn tất cả con cháu họ Liễu.
Năm 16 tuổi, hắn liên tiếp đỗ Tam Nguyên, là Trạng Nguyên trẻ tuổi nhất kể từ khi triều Tĩnh lập quốc.
Ban đầu, thúc phụ đặt kỳ vọng rất cao vào hắn. Nhưng một năm trước, khi Liễu thị quyết định lập minh ước với Lý Trọng Tân (Lục hoàng tử lúc bấy giờ), Liễu Tê Ngô lại cho rằng tính cách của Lục hoàng tử quá mềm yếu, đối với Tĩnh Quốc đang bị cường địch quấy nhiễu thì Tứ hoàng tử, người có tính cách sát phạt quyết đoán và có ảnh hưởng sâu rộng trong quân đội, mới là người kế vị thích hợp hơn.
Hắn cùng thúc phụ vì chuyện này mà tranh cãi mấy lần, cuối cùng vẫn không thể ngăn cản Liễu gia quy phục Lục hoàng tử.
Hắn cũng vì thế mà bị thúc phụ ghẻ lạnh, thân thể ngày một tiều tụy. Thời gian trước hắn bị sốt cao suốt ba ngày, thúc phụ còn chuẩn bị cả quan tài, không ngờ hắn lại hạ sốt, tinh thần cũng phấn chấn hơn, còn kiên quyết muốn tham gia triều hội hôm nay…
Liễu Cảnh Đồng nói: “Hiện giờ đại cục đã định. Thái tử điện hạ rộng lượng nhân đức, lại gắn liền với vinh quang ngày sau của Liễu thị chúng ta. Ngay cả Du biểu đệ từng là thư đồng của Lục Điện hạ, cũng vì quốc gia thiên hạ mà xả bỏ tư tình cá nhân. Biểu huynh nếu thân thể chuyển biến tốt, còn rất nhiều việc chờ huynh trù tính, những người bên Tứ Điện hạ kia... nên ít tiếp xúc thì hơn.”
Họ đã đi đến bên ngoài sương phòng. Ánh nến vàng ấm áp trong phòng xuyên qua lớp lụa cửa sổ trắng chiếu lên mặt Liễu Tê Ngô. Vẻ đẹp của hắn qua ánh đèn, gần như không chân thật.
Liễu Tê Ngô đột nhiên khẽ cười.
“Đại cục đã định...” Hắn nhìn bóng người lấp lóe qua ô cửa sổ mờ ảo từ trong sương phòng. Thần sắc lạnh như băng ngọc từ khi tỉnh lại của hắn cũng dần dịu xuống.
Liễu Cảnh Đồng đã nhìn ngây người, không chú ý tới sát khí ẩn giấu trong đáy mắt vị mỹ nhân dưới đèn. Hắn chỉ nghe đối phương thì thầm, gần như tự nói: “Nói rất đúng, tất cả mọi chuyện, đều sẽ kết thúc vào ngày hôm nay.”
"Liễu Tê Ngô" âm thầm hoạt động cổ tay, thiết tiêu giấu trong tay áo áp sát vào mạch đập, vũ khí sắc lạnh làm hắn bình tĩnh hơn.
